Cuộc đời Trang phi (Gia Khánh)

Gia Thân vương Cách cách

Vương Giai thị vào hầu Gia Khánh Đế khi ông còn là Gia Thân vương với thân phận là Cách cách, vì vậy, có lẽ bà xuất thân từ Nội vụ phủ Bao y, cũng chính là Thượng Tam kỳ Bao y. Với tư cách Sử nữ, bà được Gia Thân vương sủng hạnh mà nạp vào Tiềm để. Lúc này trong Gia Thân vương phủ có rất nhiều vị Cách cách, trong đó có Cách cách Lưu thị, Cách cách Hầu thị, Cách cách Lương thị, Cách cách Thẩm thị và Cách cách Quan thị. Bên trên có Trắc Phúc tấn Hoàn Nhan thị, sau này là Trắc Phúc tấn Nữu Hỗ Lộc thị. Chủ mẫu là Đích Phúc tấn Hỉ Tháp Lạp thị.

Đại Thanh Tần phi

Địa vị vững vàng

Năm Gia Khánh nguyên niên (1796), ngày mùng 1 tháng giêng, Càn Long tuyên chiếu thiện nhượng cho Hoàng thái tử Vĩnh Diễm, sử gọi [Gia Khánh Đế]. Gia Khánh Đế tôn Càn Long Đế làm Thái Thượng hoàng. Hoàng đế lập Đích phi Hỉ Tháp Lạp thị làm Hoàng hậu, Trắc phi Nữu Hỗ Lộc thị làm Quý phi, Cách cách Lưu Giai thị làm Hàm phi, Cách cách Hầu thị phong Doanh tần, Cách cách Lương thị phong Vinh Thường tại. Còn Cách cách Vương Giai thị được sơ phong Thường tại, gọi là Xuân Thường tại (春常在)[1].

Ba năm sau khi được phong Thường tại, tức năm Gia Khánh thứ 4 (1799), Vương Giai thị trở thành Xuân Quý nhân (春贵人).

Năm Gia Khánh thứ 6 (1801), ngày 8 tháng giêng, căn cứ theo cuốn Chỉ dụ đương, Hoàng Đế đã tấn phong Xuân Quý nhân thành Hòa tần (和嬪)[2]. Nhưng không biết vì lí do gì, ngày 14 cùng tháng, lại đổi phong hiệu thành Cát (吉) và Vương Giai thị trở thành Cát tần (吉嫔)[3]. Lấy Công bộ thị lang Trát Lang A (扎朗阿) làm Chính sứ, Cử nhân nội các Ngọc Lâm (玉麟) làm Phó sứ, hành lễ sắc phong cho Cát tần. Xét theo Hồng xưng thông dụng của Nội vụ phủ, phong hiệu "Cát" của bà có Mãn văn là 「sabingga」, ý là "Điềm lành", "Lanh lợi".

Sách văn viết[4]:

晋封贵人王氏为吉嫔。册文曰。朕惟位正天闺。宜后星之增朗。教先妇学。允邦媛之攸司绮观升华。丝言锡庆。咨尔贵人王氏、紫庭助德。彤史擒辞。初履善以含和。早流蕙问。用延祥而集祉。宜荷芳名。是用晋封尔为吉嫔。锡之册命。尔其粢盛致洁。无愆于明齍玉敦之仪。桑曲襄勤。克赞夫元紞绿籧之典。钦哉。

.

Trẫm duy vị chánh thiên khuê. Nghi hậu tinh chi tăng lãng. Giáo tiến phụ học. Doãn bang viện chi du tư ỷ quán thăng hoa. Ti ngân tích khánh.

Tư nhĩ Quý nhân Vương thị. Tử đình trợ đức. Đồng sử cầm từ. Sơ lí thiện dĩ hàm hòa. Tảo lưu huệ vấn. Dụng diên tường năng tập chỉ. Nghi hạ phương danh. Thị dụng tấn phong nhĩ vi Cát tần.

— Sách văn tấn phong Xuân quý nhân làm Cát tần

Năm Gia Khánh thứ 13 (1808), ngày 21 tháng 4 (âm lịch) Hoàng trưởng tôn Dịch Vĩ ra đời, Hoàng đế vui mừng đại phong hậu cung. Cát tần Vương Giai thị chiếu tấn Trang phi (莊妃), cư ngụ tại Dực Khôn cung[5]. Tuy phong hiệu Trang (莊) của bà trùng với phong hiệu trước đây mà Hiếu Trang Văn Hoàng hậu của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực có được về mặt chữ Hán, nhưng Mãn ngữ hoàn toàn khác nhau. Theo Hồng xưng thông dụng, phong hiệu "Trang" của bà có Mãn văn là 「ujengge」, ý là "Đoan Trang", "Trang trọng". Mệnh Đại học sĩ Lộc Khang (禄康) làm Chính sứ, Cử nhân nội các Ngọc Phúc (玉福) làm Phó sứ, tuyên sách cho Trang phi.

Sách văn viết:

持节赍册印、册封吉嫔王佳氏为庄妃。册文曰、朕惟升椒佐治。肃雍襄九御之勤。衍瓞推恩。敷锡普六宫之庆。值云礽之肇祉。贲纶綍以钦承。咨尔吉嫔王佳氏、赋质金照。秉心玉粹。柔嘉维则。鸣环永叶乎徽音。淑慎其仪。献茧克修夫内职。是用晋封尔为庄妃。申之册命。尔其恪膺茂典。益彰褕翟之辉。式迓繁厘。光赞睢麟之化。钦哉

.

Trẫm duy thăng tiêu tá trị. Túc ung tương cửu ngự chi cần. Diên điệt suy ân. Phu tích phổ lục cung chi khánh. Trị vân nhưng chi triệu chỉ. Phần luân phất dĩ khâm thừa.

Tư nhĩ Cát tần Vương Giai thị. Phú chất kim chiếu. Bỉnh tâm túc toái. Nhu gia duy tắc. Minh hoàn vĩnh hiệp hồ huy âm. Thục thân cơ nghi. Hiến cẩn khắc tu phù nội chức. Thị dụng tấn phong nhĩ vi Trang phi.

Thân chi sách mệnh. Nhĩ cơ khác ưng mậu điển. Ích chương du trạch chi huân. Thức nhạ phồn hi. Quang tán huy lân chi hoa. Khâm tai.

— Sách văn chiếu tấn Cát tần làm Trang phi

Tuy không thể khai chi tán diệp cho Hoàng gia, nhưng Vương Giai thị từ một thị thiếp nhỏ bé ở Tiềm để vẫn vững vàng lên tới tước Phi, đây là một trường hợp cần rất nhiều sự ân sủng và hậu thuẫn từ phía chính Gia Khánh Đế.

Qua đời

Năm Gia Khánh thứ 16 (1811), ngày 15 tháng 2 (âm lịch), giờ Mão, Trang phi Vương Giai thị bệnh nặng qua đời, kim quan tạm an tại Sướng Xuân viên. Ngày 17 và 21 cùng tháng, Gia Khánh Đế đích thân tới tế lễ. Ngày 12 tháng 3 (âm lịch), kim quan của Trang phi Vương Giai thị được đưa đến Thanh Tây lăng. Ngày 19 thì hạ táng vào Xương lăng Phi viên tẩm[6]. Vì đúng dịp Gia Khánh Đế cũng đang ở Thanh Tây lăng hiếu kính với các Tiên hoàng, nên 2 ngày sau, Hoàng đế lại đích thân đến tế rượu trước mộ phần của bà[7]. Bảo đính của bà nằm ở vị trí thứ hai bên phải của hàng thứ hai, đối xứng với bảo đính của Hoa phi, trung gian ngăn cách là bảo đính của Thứ phi.